Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Bài viết phân tích vị trí, vai trò, chức năng của hội đồng quản trị trong công ty, cụ thể: Mục lục bài viết 1. Hội đồng quản trị và thành viên hội đồng quản trị 2. Hệ thống pháp luật trong quản trị nhân sự Đối với việc quản trị nhân sự quốc tế, các nhà quản lý cần để ý tới hệ thống pháp luật nước ngoài. Cụ thể, hoạt động quản trị nhân sự quốc tế cần gắn liền với: Pháp luật lao động ở nước sở tại. Pháp luật lao động của nước chủ nhà. Các thông lệ quốc tế. Ảnh minh họa1. Thiết quân luật là biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt có thời hạn do Quân đội thực hiện. 2. Khi an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một hoặc một số địa phương bị xâm phạm nghiêm trọng tới mức chính quyền ở đó không còn kiểm soát Căn cứ tại khoản 1 Điều 153 Luật Doanh nghiệp 2020 thì Hội đồng quản trị được định nghĩa là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ các quyền và nghĩa vụ thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Vậy quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị là gì? Quản trị thương hiệu là một khái niệm liên quan đến việc lập chiến lược và đánh giá thương hiệu trên các khía cạnh định vị thương hiệu, khách hàng mục tiêu, nhận thức thương hiệu và hình ảnh thương hiệu. Đối với việc quản trị thương hiệu, công ty nên duy trì một hình ảnh tốt trong lòng khách hàng. v7SHY. Khái niệm và bản chất của quản trị1. Khái niệm quản trịQuản trị là một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực. Ví dụ quản trị hành chính trong các tổ chức xã hội, quản trị kinh doanh trong các tổ chức kinh tế. Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh lại chia ra nhiều lĩnh vực Quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị Marketing, quản trị sản xuất…Quản trị nói chung theo tiếng Anh là “Management” vừa có nghĩa là quản lý, vừa có nghĩa là quản trị, nhưng hiện nay được dùng chủ yếu với nghĩa là quản trị. Tuy nhiên, khi dùng từ, theo thói quen, chúng ta coi thuật ngữ quản lý gắn liền với với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tức là quản lý ở tầm vĩ môi. Còn thuật ngữ quản trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức, một doanh rất nhiều quan niệm về quản trị– Quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của những người khác; quản trị là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức;– Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong một môi trường luôn luôn biến động;– Quản trị là một quá trình nhằm đạt đến các mục tiêu đề ra bằng việc phối hợp hữu hiệu các nguồn lực của doanh nghiệp; theo quan điểm hệ thống, quản trị còn là việc thực hiện những hoạt động trong mỗi tổ chức một cách có ý thức và liên tục. Quản trị trong một doanh nghiệp tồn tại trong một hệ thống bao gồm các khâu, các phần, các bộ phận có mối liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát người cùng làm việc với nhau trong một nhóm để đạt tới một mục đích nào đó, cũng giống như các vai mà các diễn viên đảm nhiệm trong một vở kịch, dù các vai trò này là do họ tự vạch ra, là những vai trò ngẫu nhiên hoặc tình cờ, hay là những vai trò đã được xác định và được sắp đặt bởi một người nào đó, nhưng họ đều biết chắc rằng mọi người đều đóng góp theo một cách riêng vào sự nỗ lực của Lịch sử của quản trịTừ những năm 1840 – 1890 khi những cơ sở sản xuất nhỏ, những công trường thủ công, xưởng thợ ra đời kèm theo nó là sự xuất hiện của những quản trị viên. Họ là chủ sở hữu những cơ sở sản xuất nhỏ của mình và đồng thời là nhà quản năm 1890, nhiều xí nghiệp lớn, nhiều liên hiệp xí nghiệp ra đời và phát triển mạnh. Để quản lý các doanh nghiệp có quy mô ngày càng lớn này và thích ứng với môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi, các nhà nước, các chính phủ đã xây dựng và ban hành nhiều đạo luật nhằm quy định quyền hạn và trách nhiệm của những xí nghiệp và liên hiệp xí nghiệp quá trình cải tổ doanh nghiệp, không chỉ có các chủ sở hữu mà cả những luật gia cũng tham gia vào những chức vụ quan trọng của quản trị doanh nghiệp và hoạt động quản trị được thực hiện trong phạm vi những điều luật quy nhiên, trong giai đoạn trước năm 1910 chưa có những tác phẩm đáng kể viết về quản trị doanh nghiệp, kể cả vấn đề tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Có chăng chỉ là những kinh nghiệm được sao chép, truyền lại qua các đời, từ các gia đình, dòng họ. Vì vậy, quản trị doanh nghiệp chưa phải là môn khoa học chính năm 1910, nhiều công ty, nhiều tập đoàn sản xuất lớn được hình thành; nhiều ngân hàng xuất hiện nhằm phục vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn. Các chức danh Giám đốc, Tổng Giám đốc ra đời. Vấn đề quản trị doanh nghiệp càng được đặt ra cụ thể, chặt chẽ dưới các điều luật cụ năm 1911, tác phẩm quản trị doanh nghiệp có giá trị đầu tiên được xuất bản ở Mỹ. Cuốn sách do nhà khoa học quản trị nổi tiếng F. W. Tây-lơ biên soạn với tiêu đề “Những nguyên tắc và phương pháp quản trị khoa học Principles and methods of scientice manngement“. Cuốn sách chủ yếu đề cập vấn đề quản trị nhân sự Làm thế nào để người lao động hoàn thiện và sử dụng có hiệu quả công cụ lao động, thời gian làm việc để tăng năng suất lao Đại chiến Thế giới lần thứ nhất 1913 – 1918, tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng kinh tế, tài chính đã làm cho hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản. Nhiều doanh nghiệp còn trụ lại, được tổ chức lại hoặc hợp nhất với nhau. Cơ chế quản lý mới ra đời thích ứng với thời kỳ mới. Trên cơ sở này, giới quản trị doanh nghiệp mới xuất hiện với những nguyên tắc, phương pháp và kinh nghiệm quản lý 1922 đã ra đời một tác phẩm có giá trị cao về quản trị doanh nghiệp. Đó là tác phẩm của nhà khoa học Pháp Hen-ry Fayol về “Quản lý công nghiệp và quản lý tổng hợp Industrial and General Administration“. Nội dung cơ bản của cuốn sách đề cập đến phương pháp quản trị trong phòng giấy, chủ yếu nói về những chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Những tư tưởng, quan điểm cơ bản của cuốn sách cho đến nay vẫn được áp đến năm 1940, các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đã nhận thấy tính tất yếu phải xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ quản trị viên doanh nghiệp và một hệ thống trường lớp, giáo trình đào tạo quản trị viên đã ra đời. Từ đó, khoa học quản trị doanh nghiệp đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho các doanh Fonet viết trong cuốn sách “Đường xoắn ốc của những phương pháp khoa học và hiệu quả của nó đối với quản lý công nghiệp Papus of scientirc methods and its effect upon industrial manngement“.Cuốn sách đã xác định những tư tưởng triết học và những quan điểm của quản trị tiến phát triển của quản trị doanh nghiệp từ năm 1946 đến nay Đây là giai đoạn sau kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II, chuyển sang khôi phục, phát triển kinh tế và giao lưu quốc tế. Cùng với trào lưu đó, công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nhiều nước công nghiệp tiên tiến đã đạt được tốc độ cao trong tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1946 trở đi, ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị nói về quản trị doanh nghiệp. Ở nhiều nước đã thành lập các trường riêng để giảng dạy, đào tạo những nhà quản trị doanh nghiệp từ cấp thấp đến cấp cao nhất doanh thể kể đến các trường ở Mỹ Trường MBA Master of Business Administration, Trường Kinh doanh Ha-vớt Harvard Business School; ở Nhật Trường Đào tạo Giám đốc dưới chân núi Phi-ghi… Có thể kể đến một số tác phẩm quản trị doanh nghiệp đặc biệt có giá trị trong thời kỳ này như. Cuốn sách “Quản lý năng động” xuất bản năm 1945 của hai nhà khoa học người Anh và Mỹ. Tác phẩm này đã tổng kết những nguyên tắc của quản trị doanh nghiệp đạt được từ xưa đến năm 1945. Trên cơ sở lý luận về quản trị doanh nghiệp mới phù hợp với điều kiện hiện đó lần lượt hàng trăm cuốn sách khác nhau, nhiều sách giáo khoa, bài báo về quản trị doanh nghiệp ra đời. Những buổi hội thảo, hội nghị quốc tế, nhiều lớp học được tổ chức để làm sáng tỏ những vấn đễ cơ bản của quản trị doanh nghiệp trong điều kiện hiện đại. Từ sau năm 1960, là thời kỳ sôi nổi, phát triển nhất của quản trị doanh nghiệp mà nhân loại đạt được từ nền kinh tế tư bản phát triển tới nay. Một công ty Mỹ trong năm 1960, đã phải chi tới đô-la chỉ để phục vụ việc sưu tầm, thu thập, tổng hợp những tài liệu về quản trị doanh nghiệp, nhằm bồi dưỡng cho những quản trị viên của công ty chưa kể tiền lương và những chi phí khác phục vụ cho đội ngũ giáo sư, cán bộ giảng dạy….Tóm lại, qua các giai đoạn phát triển của quản trị doanh nghiệp chúng ta thấy nổi bật một vấn đề là Xã hội từ chỗ chấp nhận từ từ đến chấp nhận hẳn vai trò của quản trị doanh nghiệp, mà gắn liền với nó là các quản trị viên có nghiệp vụ và các cố vấn có năng lực vận dụng những kiến thức lý luận quản trị doanh nghiệp vào thực tiễn. Ngày nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 90, ở hầu hết các nước đã hình thành một hệ thống trường lớp để đào tạo, bồi dưỡng các nhà quản trị doanh nghiệp tài ba đem Bản chất của quản trịMục tiêu của quản trị là tạo ra giá trị thặng dư tức tìm ra phương thức thích hợp để thực hiện công việc nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí các nguồn lực ít nhất. Nói chung, quản trị là một quá trình phức tạp mà các nhà quản trị phải tiến hành nhiều hoạt động từ khâu đầu đến khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực chất của quản trị là quản trị các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất các yếu tố đầu ra theo chu trình quá trình hoạt động của một tổ chức, một doanh quan niệm trên cho dù có khác nhau về cách diễn đạt, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở chỗ quản trị phải bao gồm ba yếu tố điều kiệnThứ nhất Phải có chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra tác động quản trị và một đối tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động đó. Tác động có thể chỉ một lần và cũng có thể nhiều hai Phải có một mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị được thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động. Về thuật ngữ chủ thể quản trị, có thể hiểu chủ thể quản trị bao gồm một người hoặc nhiều người, còn đối tượng quản trị là một tổ chức, một tập thể con người, hoặc giới vô sinh máy móc, thiết bị đất đai, thông tin….Thứ ba Phải có một nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong quá trình quản trị. Han Phung Han Phung General Director & Managing Director at Omron Vietnam Published Dec 4, 2020 Trong bài viết trước tôi cùng các bạn đã đề cập đến triết lý quản trị cần dựa trên quy luật tự nhiên. Vậy quy luật tự nhiên liên quan đến quản trị cụ thể ở đây là gì? Điều đó gắn liền với quy luật tiến hóa của con người và xã hội loài người trong mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Điều cốt yếu là người quản trị doanh nghiệp cần nhận ra xu hướng đó, đánh giá được sức ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh và có những điều chỉnh phù hợp để doanh nghiệp cũng như con người và xã hội không ngừng thích ứng và phát triển."Một triết lý quản trị cần được xây dựng trên nền tảng của các quy luật tự nhiên và xã hội. Tất nhiên không ai có thể đưa ra một định nghĩa chính xác những quy luật này là gì, nhưng tác động nói chung của chúng là vòng quay không ngừng của sinh ra, lớn lên, phát triển và biến đổi với sự ảnh hướng tới mọi mặt của thế lý quản trị của tôi dựa trên hiểu biết về những quy luật tự nhiên này, và tôi tin rằng người quản lý phải nhìn ra ảnh hưởng của nó trong hoạt động kinh doanh. Chúng ta đều biết mọi hình thái sống đều luôn tiến hoá không ngừng. Có một số hình thái không ngừng biến mất và được thay thế bới những hình thái mới vốn cũng phát triển và lại mất đi. Tiến trình này giúp hình thành nên nền văn minh của chúng ta và cũng định hình trạng thái của loài người. Đó cũng chính là sự kích thích thúc đẩy xã hội phát triển hướng tới niềm hạnh phúc lớn hơn về cả vật chất và tinh nghĩ như trên về nhân loại vốn mang ý nghĩa tích cực bởi nó hàm ý rằng loài người phát triển theo hướng cải thiện và có sự kiểm soát tốt hơn đối với môi trường nhằm đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Mọi người xung quanh chúng ta vẫn luôn nói về việc mọi thứ đang trở nên tồi tệ hơn thế nào. Nhưng nếu chúng ta nhìn lại về quá khứ, chúng ta có thể thấy rằng thậm chí sau những thời kỳ đen tối nhất, nhân loại đã luôn vươn lên, có thêm những kỹ năng và trí tuệ vĩ đại hơn. Rất nhiều nỗi lo sợ hiện nay tập trung vào sự giảm sút của những tài nguyên thiên nhiên. Một số những dự báo lo ngại nhất thì cho rằng những tài nguyên này chỉ đủ cho nhân loại tồn tại trong vài thập kỷ tới. Nhưng tôi không đồng ý như vậy. Nhân loại sẽ tồn tại và phát triển. Đó là bản tính tự nhiên của chúng ta. Một số nhiên liệu nhất định như xăng, than đá, khí tự nhiên sẽ trở nên khan hiếm trong tương lai, nhưng những tiến bộ trong tri thức của nhân loại sẽ giúp tìm ra những nhiên liệu hiệu quả hơn. Đây không phải là một niềm tin mù quáng mà là một sự tự tin dựa trên những bằng chứng lịch xem xét một ví dụ như việc tăng dân số đáng báo động trong nửa thế kỷ vừa qua. Chất lượng cuộc sống trong quá khứ vốn thua kém hơn ngày nay rất nhiều khi vẫn còn ít người hơn cùng nhu cầu ít hơn về thức ăn và nhà cửa. Cuộc sống của một người bình dân ngày nay còn an toàn và đầy đủ hơn vua chúa hay tầng lớp quý tộc trọng qua khứ. Sự phát triển – một đặc trưng vốn có trong tự nhiên của vũ trụ và cong người – là hệ quả cần thiết của quy luật tự nhiên trong sự sinh ra, lớn lên, phát triển và biến đổi trong thế giới tự nhiên và xã chúng ta tin chắc rằng những tài nguyên của thế giới sẽ cạn kiệt và nhân loại sẽ đi đến thời khắc tuyệt chủng trong vài thập kỷ tới, việc quản trị kinh doanh sẽ có hành động tương ứng với thực trạng này. Sẽ không có đầu tư mới phát triển sản xuất, và tất cả các doanh nghiệp sẽ giảm mạnh hoặc dừng hoạt động? Tuy nhiên, nếu chúng ta thừa nhận rằng cả vụ trụ này không ngừng được tái tạo, cách nghĩ và hoạch định cho tương lai của chúng ta sẽ thay đổi. Chúng ta sẽ nhận ra rằng sự tăng trưởng và phát triển là điều chắc chắn xảy ra, và sự tập trung trong hoạt động quản trị sẽ hướng tới việc đặt ra một lượng phù hợp của hàng hóa và dịch vụ để đạm bảo một mức tăng trưởng phù hợp. Vì lý do này mà những người quản lý không ngừng tìm kiếm sự phát triển và đầu tư ra, lớn lên và phát triển cũng hàm ý sự suy giảm, lụi tàn và biến mất. Dẫu vậy, xu hướng chung của thay đổi vẫn là tích cực. Áp dụng điều đó vào quản trị, điều này có nghĩa là cho dù một số sản phẩm hoặc ngành sẽ biến mất, những nhà quản lý cần luôn nhận thấy một thực tại là định hướng chung là nhắm tới sự tăng trưởng và phát triển. Và bằng việc thực hiện những điều chỉnh trong tiến trình này, những điều mới mẻ có thể được hình thành trong khi những điều cũ kỹ sẽ biến mất."Hãy cũng đọc phần tiếp theo về sứ mệnh xã hội của doanh nghiệp.

quản trị luật là gì