Công dụng của cây cỏ ngọt. – Làm giảm nhu cầu chất đường và chất bột của cơ thể người bệnh, giúp bệnh nhân khỏi chứng đau đầu, mất ngủ. – Sử dụng cùng với Lá khô Trà Actiso, nhân trần, cam thảo để làm nước uống giải khát có tác dụng hạ nhiệt, lợi tiểu.
1. Bệnh tụ huyết trùng – Nguyên nhân: Bệnh tụ huyết trùng còn gọi là hoại huyết ngỗng, ngỗng rất mẫn cảm với bệnh này.Ở những ngỗng khỏe mạnh vẫn có mầm bệnh (vi khuẩn Pasteurella) nhưng chỉ có ngỗng thường xuyên không được ăn đủ vitamin, protit, chất khoáng, hoặc gặp môi trường sống không thuận
Trên Pngtree, bạn có thể tìm thấy hình ảnh Cây Lí Gai clipart và tải xuống hoàn toàn miễn phí. Với các tài nguyên clip art Cây Lí Gai này, bạn có thể sử dụng để in ấn, thiết kế web, powerpoint, lớp học, dự án thủ công và các mục đích thiết kế đồ họa khác.
Kể chuyện: Cây cỏ nước Nam. 1. Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh. vẽ dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện: Cây cỏ. nước Nam. * Tuệ Tĩnh giảng giải cho học trò về cây cỏ nước Nam. Tuệ Tĩnh là một danh y đời Trần. Ông đã dẫn học trò của
Cỏ lông tây có nguồn gốc từ Nam Mỹ, được phát triển trồng ở nhiều nơi trên thế giới để dùng làm thức ăn thô ở dạng xanh tươi hoặc phơi khô cho trâu, bò, ngựa. Tại Việt Nam, giống cỏ này được trồng ở Nam bộ từ cuối thế kỷ 19, sau được nhân rộng ra nhiều
3 Chậu Trồng Hoa , Cây Cảnh MONROVIA Màu Xanh 7Gal --- Danh mục --- Vật tư - Phụ kiện Máy nông nghiệp Thiết bị-Phương tiện Thực phẩm tươi Chế biến sẵn Chim - Cây - Cá - Chó Sản phẩm- Dịch vụ # For Foreign BUYERS Kỹ thuật - Công nghệ Nhà cửa - Đời sống
7nOzsfP. I. Giới thiệu nuôi ngỗng một số giống 1. Nuôi ngỗng cỏ ngỗng sen Việt Nam. Nuôi ngỗng cỏ hay ngỗng sen phân bố rộng rãi khắp cả nước. Ngỗng cỏ được nuôi nhiều ở vùng đồng bằng và trung du. Ngỗng có 2 loại hình chính là loại hình lông trắng và lông xám. Ngoài ra còn có ngỗng loang xám trắng do sự pha tạp giữa 2 loại trên. Đặc điểm thân mình có cấu tạo chắc chắn, có dáng hình thoi, tiết diện thân gần như tròn. Ngỗng có đầu nhỏ, cổ dài và mảnh. Ngỗng đực có mào sừng hình tròn nằm ở gốc mỏ trên, mỏ màu vàng da cam, mắt màu xám đen, bụng thon gọn, chân cao vừa phải và chắc chắn. Khoảng 210 – 240 ngày tuổi ngỗng có thể đẻ. Ngỗng đẻ mỗi năm khoảng 26 – 35 quả. Khối lượng trứng trung bình từ 145g -175g. Ngỗng trưởng thành 2 năm tuổi trống nặng 4,0kg – 4,5kg, mái nặng 3,8kg – 4,2kg. Chia sẻ kinh nghiệm nuôi ngỗng Ngỗng cỏ chịu kham khổ tốt và có khả năng kháng bệnh cao hơn các giống ngỗng ngoại. 2. Ngỗng sư tử Bắt nguồn từ Bắc Trung Quốc và Xiberi, ngỗng có sức đề kháng và sức đẻ 50 – 70 quả/năm. Ngỗng sinh trưởng và phát triển nhanh, thích nghi tốt với điều kiện thiên nhiên của ta. Nuôi ngỗng có tầm vóc to trông dữ tợn, có lông màu xám, đầu to mỏ đen thẫm, mào màu đen. Mắt nhỏ và có màu nâu xám. Phần trên cổ có yếm da, thân mình dài vừa phải, ngực dài nhưng hẹp, xương to nhưng thịt màu hơi trắng. Có thể dùng ngỗng sư tử để lai với ngỗng cỏ để nâng cao khối lượng và tầm vóc. 3. Ngỗng Hungari cải tiến Được hình thành từ giống ngỗng địa phương với giống ngỗng sư tử Trung Quốc. Đời con cho màu lông xám và lông trắng. Tốc độ sinh trưởng và tăng trọng bình thường 10 tuần tuổi đạt 3,4 – 3,6kg. Bình quân đẻ 30 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 150 – 180g/quả. Ngỗng Hungari có khẳ năng thích nghi tốt với hoàn cảnh sống tự nhiên và tận dụng thức ăn tự nhiên tốt. Người ta còn dùng giống ngỗng này để sản xuất gan. II. Thức ăn trong chăn nuôi ngỗng Các loại thức ăn được sử dụng trong chăn nuôi ngỗng gồm 1. Thức ăn xanh Rau, bèo, cỏ, củ, quả. 2. Thắc ăn hạt Ngô, thóc, đậu tương, lạc củ. 3. Thức ăn bổ sung khoáng. 1. Thức ăn xanh và củ, quả Ngỗng sử dụng tốt và rất hiệu quả thức ăn xanh lá rau, các loại bèo, các loại nuôI ngỗng thức ăn xanh chiếm 30 – 40% lượng thức ăn cung cấp hằng ngày. Ngoài ra trong thức ăn xanh còn có một số loại củ như khoai lang, sắn củ bỏ vỏ và bí đỏ. 2. Thức ăn hạt * Ngô Được sử dụng nhiều trong giai đoạn vỗ béo. Ngô có hàm lượng caroten và tinh bột cao. Tuy vậy cần chú ý trong khâu bảo quản vì ngô dễ bị nấm mốc. * Thóc Thóc là một phần lương thực được sử dụng trong chăn nuôi ngỗng. Trong hạt thóc tỷ lệ xơ cao, protein, chất béo và giá trị năng lượng trao đổi thấp hơn ngô. Trong chăn nuôi nông hộ thóc được sử dụng nhiều dể chăn nuôi vịt, ngan và ngỗng. * Hạt đậu tương Đậu tương là nguồn thức ăn thực vật Năng lượng trao đổi cao, giàu protein. Cần chú ý rang hoặc luộc chín hạt đậu để làm mất hiệu lực của các độc tố của hạt. * Lạc Lạc có hàm lượng chất béo cao. Ngỗng sử dụng tốt các củ lạc cả vỏ sót và rơi vãi trên ruộng sau thu hoạch. * Cám gạo Là sản phẩm sau xay xát có giá trị dinh dưỡng cao. Cám gạo tốt, ít chất xơ, nhiều Vitamin B1. Khi sử dụng nên phối hợp với các thức ăn tinh khác. Đối với ngỗng, vịt có thể nấu chín hoặc trộn lẫn với rau xanh. 3. Thức ăn bổ sung Trong thực tế chăn nuôi ngỗng ít bị thiếu khoáng và Vitamin nếu ngỗng được nuôi với đủ rau cỏ xanh và được chăn thả cỏ. Sự thiếu hụt khoáng và vitamin chỉ xảy ra với ngỗng nuôi nhốt. Cần bổ sung thêm Bột vỏ sò, vỏ trứng là nguồn thức ăn chứa 33%caxi và khoảng 6% photpho, sử dụng bổ sung để nuôi ngỗng. => Xem thêm Thức ăn cho ngỗng như thế nào? III. Kỹ thuật nuôi ngỗng a- Kỹ thuật nuôi ngỗng con, ngỗng choai 1. Chọn ngỗng con Ngỗng phải nở đúng ngày, khối lượng từ 85 – 100g/ nhẹn, lông bông, mắt sáng không hở rốn, dáng đi vững vàng. Nừu là ngỗng cỏ có lông màu vàng chanh 2. Nhiệt độ Tuần 1 32 – 35 C Tuần 2 27 – 29 C Tuần 3 25 – 27 C Tuần 4 23 – 25 C Đảm bảo nhiệt độ gột ngỗng trong những ngày mới nở và trong mùa gột ngỗng là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp ngỗng con có sức đề kháng tốt. – Biện pháp sưởi ấm Có thể dùng lò sưởi bằng bóng điện 100w. Nếu sử dụng trấu hoặc than cần phải chú ý để khói thoát ra ngoài tránh ngỗng con bị ngạt bởi thiếu Oxi và ngộ độc khí cacbonic. Cách tốt nhất nhận biết ngỗng có đủ ấm hay không là quan sát đàn ngỗng. + Nếu thiếu nhiệt Ngỗng bị lạnh sẽ nằm đè lên nhau, cum thành từng đống. Cần tăng cường nguồn nhiệt và che chắn chuồng nuôi để giữ nhiệt, đồng thời tách những ngỗng yếu để chăm sóc riêng. + Nếu quá nóng Ngỗng tránh xa nguồn nhiệt + Nếu bị lạnh Ngỗng con dạt về một phía, nằm cụm thành từng nhóm. Cần che chuồng cho kín gió. + Nếu đủ nhiệt Ngỗng con đi lại ăn uống bình thường 3. Quây và máng ăn, máng uống – Quây Có tác dụng ngăn ngỗng không đi xa, đồng thời có tác dụng che ấm cho ngỗng con trong mùa đông. – Máng ăn Sử dụng máng có kích thước 45cm*60cm*2cm dùng cho 25 – 30 ngỗng con. – Máng uống Sử dụng máng nhựa cho ngỗng uống. Mỗi máng sử dụng cho 15 – 20 con. 4. Chất độ chuồng Dùng các loại rơm, trấu, mùn cưa để lót chuồng ngỗng. Trước khi lót phải tiến hành vệ sinh sạch sẽ, phơi khô sau đó mới đem vào sử dụng. 5. Ánh sáng Cần đảm bảo 24/24 giờ ở những ngày đầu, sau đó là 18 – 20 giờ ở các tuần tiềp theo. 6. Mật độ Mật độ cần đảm bảo 1 – 7 ngày tuổi 10 – 15 con/m2 8 – 28 ngày tuổi 6 – 8 con/m2 7. Thức ăn và cách nuôi dưỡng ngỗng b- Kỹ thuật chăn nuôi ngỗng hậu bị, sinh sản 1. Chuẩn bị cơ sở vật chất – Cần chuẩn bị con giống, chuồng trại và thức ăn+ Giống ngỗng Cần có kế hoặch về quy mô đàn và thời gian nuôi để có kế hoạch mua con giống cho chủ động và mua được giống tốt + Chuồng trại Ngỗng hậi bị và sinh sản không cần chuồng nuuôi cầu kỳ. Chuồng nuôi chỉ làm bằng những nguyên liệu dễ kiếm như tre, lứa. Tường bao không cần qua kín để tiện lợi việc đi lại của ngỗng, dễ dàng vệ sinh và đảm bảo sự thông thoáng. Nề chhuồng làm bằng gạch hoặc láng xi măng để dễ quét dọn, nền phải có độ dốc về sau. Nên có diện tích mặt nước trứơc chuồng để cho ngỗng tắm và bơi lội. + Thức ăn Cần dự trữ ngô, thóc từ đầu vụ cho đàn ngỗng hậu bị và sinh sản. Cần 45 – 50kg thóc hoặc ngô/ngỗng. – Gây giống ngỗng hậu bị Ngỗng có thể đẻ trứng từ 3 – 4 năm. Nếu điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì ở các năm tiếp theo ngỗng mái không giảm sút nhiều sức đẻ ở các năm tiếp theo. Chọn được ngỗng hậu bị tốt sẽ quyết định đến sự thành bại của đàn ngỗng sinh sản. Có 2 cách để gây giống hậu bị. + Cách thứ nhất Tự gột ngỗng từ 1 ngày tuổi và chọn giữ lại ngỗng mái. , phao câu to. . Đối vỡi ngỗng đực chọn những con có lý lịch rõ ràng có các chỉ tiêu giống của ngỗng bố về tốc độ sinh trưởng, màu lông phải đặc trưng cho giống, đầu to mắt sáng, dáng hùng dũng. + Cách thứ hai Mua ngỗng dò lúc 77 ngày tuổi hoặc ngỗng hậu bị lúc 180 ngày tuổi. Cách này áp dụng cho những người chưa có kinh nghiệm gột ngỗng 1 ngày tuổi, nếu tiến hành theo cách này thì cần có kế hoạch dự trù số lượng ngỗng giống cần mua từ các cơ sở giống. 2. Gây ngỗng để sinh sản Về cơ bản giỗng ngỗng đã được chọnn ở giai đoạn hậu bị, cầ tiến hành chọn lọc lần cuối trước khi vào đẻ. Giữ lại những con giống đạt yêu cấu sau- Con mái Khoẻ mạnh, dáng thanh, đạt khối lượng 3,6 – 3,8kg, lỗ huyệt ướt, xương chậu nở, có biểu hiện thích đi cùng ngỗng Con trống Khoẻ mạnh, dáng hùng dũng, đạt khối lượng 4 – 4,5kg, gai giao cấu phát triển rõ ràng. 3. Kỹ thuật nuôi dưỡng ngỗng sinh sản trong chăn thả. – Tỷ lệ trống mái cần thiết là 14 hoặc 15. – Chuẩn bị ổ đẻ Làm vách ngăn cao hơn nền chuồng khoảng 20cm để ngỗng đỡ làm bẩn trứng, dưới có rơm rạ sạch để lót ổ. Cứ 2 – 3 ngỗng cần 1 ổ đẻ. – Chăn thả ngỗng đẻ Thời gian Sáng từ 8 – 11giờ Chiều từ 2 – 5 giờ Buổi trưa Cho ngỗng về nhà hoặc tránh nắng đưới các gốc cây, bổ sung 50g thóc hoặc ngô/con/ngày. Buổi tối Khi ngỗng về nhà cho ăn nốt số thức ăn còn lại, từ 100 – 150g/con/ngày. => Kỹ thuật nuôi ngỗng Tóm tắt từ A đến Z IV. Một số bệnh ngỗng thường mắc và cách phòng trị 1. Bệnh tụ huyết trùng – Nguyên nhân Bệnh tụ huyết trùng hay còn gọi là hoại hụyết ngỗng, do vi khuẩn Pasteurellosis gây ra. Ngỗng rất mẫn cảm với bệnh này. ở những ngỗng khoẻ mạnh vẫn có mầm bệnh. – Triệu chứng Thể quá cấp, ngỗng đang khoẻ mạnh, lăn ra chết. Thể cấp tính ngỗng uể oải, ủ rũ. Từ mỏ và lỗ mũi có tiết chất nhờn có bọt, có thể có tiếng khò khè. Lông xù, mất óng ánh. Phân màu xám, vàng hoặc xanh, đôi khi có máu, ỉa nhiều. Mào bị tím xanh. Thở nhanh và khó – Bệnh tích ở thể quá cấp có thanh dịch trong bao tim. trong trường hợp cấp tính tụ máu trong các lớp da bên trong và dưới da; xuất huyết ở nội tâm mạc; bao tim ứ đầy nước; viêm tá tràng; trong xoang bụng có thanh dịch; gan xưng, có nhiều điểm hoại tử, lá lách sưng; phổi viêm và có nốt sần. – Phòng bệnh Không nên nuôi lẫn lộn giữa vịt, ngan và ngỗng. Chuồng trại cần làm vệ sinh thật chu đáo, kể cả các dụng cụ ăn uống cần được tẩy uế sát trùng theo định kỳ thời gian, nhất là khi có dịch bệnh xảy ra. – Trị bệnh + Dùng Streptomicin 100 – 150mg/1kg thể trọng liên tục trong 3 – 5 ngày. + Sunfamethazin trộng với thức ăn 0,5% hoặc hoà với nước uống 1%. 2. Bệnh dịch tả vịt lây sang ngỗng – Triệu chứng Điển hình là đau mắt đỏ và sưng – Phòng bệnh Trước hết cần cách ly đàn giống khỏi khu vực có các đàn vịt lớn hoặc đang mắc bệnh, chuồng trại cần được tiêu độc cẩn thận trước lúc nuôi đàn giống. Những nơi có ổ dịch tả vịt thường xuyên xảy ra càn tiêm vacxin dịch tả để phòng. – Trị bệnh Khi xảy ra bệnh thì việc điều trị là kém hiệu quả, cần tiêm ngay vacxin vào thẳng ổ dịch. Những ngỗng mắc bệnh nặng sẽ chết 20 – 50%, số còn lại trong đàn có khả năng tạo kháng thể và tồn tại, tỷ lệ chết này tuỳ thuộc và tính chất nặng nhẹ của ổ dịch. Cần lưu ý cùng với việc tiêm thẳng vacxin thì công tác tẩy uế chuồng trại cần được thực hiện nghiêm túc, xác ngỗng chết phải được chôn cùng chất sát trùng như vôi bột hoặc foocmol. Bổ sung vitmin C và vitamin B vào nước uống liều 2g/1lít nước. 3. Bệnh phó thương hàn – Nguyên nhân Đặc trưng là ỉa chảy, viêm kết mạc và gầy sút. Bệnh có ở tất cả các nơi, gây chết 70 – 80% đàn gia cầm non, gia cầm lớn mắc bệnh ở thể mãn tính, làm sức đẻ trứng bị giảm sút. Gia cầm bệnh và khỏi bệnh là nguồn lây bệnh chủ yếu. Chúng có thể đẻ trứng đã bị nhiễm bệnh, nếu nhiễm nặng khi ấp phôi thai có thể chết, nếu nở được thì con cũng mắc bệnh. khi ngỗng bị quá mết do vận chuyển, chuồng trại chật trội, độ ẩm cao, bẩn, thiếu nước uống, sự biến đổi nhệt lớn sẽ phát bệnh. Sự nhiễm bệnh chủ yếu qua đường tiêu hoá, có khi qua hô hấp, qua phối giống. – Triệu chứng và bệnh tích Thể cấp tính ỉa chảy, có bọt khí, viêm thanh dịch, có mủ, viêm màng kết mạc làm cho đau mắt. Cánh rủ, lông xơ, cánh khô mất lánh. Bệnh kéo dài từ 1 – 4 ngày, gây chết đến 70%. Thể mãn tính thường thấy ở gia cầm lớn ỉa chảy, đôi khi có máu, lông khô mất ánh. Viêm lỗ huyệt, buồng trứng. trong thể mãn tính niêm mạc manh tràng thương bị phủ bởi lớp vàng dễ bóc. Túi mật sưng, đầy mật. trong lòng ruột non chứa dịch đục, đặc, màng niêm mạc thuỷ thũng, thường sung huyết, đôi khi bị phủ lớp màng như cám xám bẩn. – Phòng và trị bệnh + Dùng Biomixin liều 5 – 10mg/lần từ 2 – 3 lần/ngày, liên tục trong 5 – 6 ngày. + Có thể dùng các loại thuốc khác Norflorxacin, hướng dẫn của nhà sản xuất. Không dùng trứng của các ngỗng mẹ có bệnh để ấp. 4. Bệnh cắn lông, rỉa lông – Nguyên nhân Bệnh thường xảy ra ở các đàn ngỗng nuôi nhốt chật trội, khônh có sân vận động. chuồng trại ẩm ướt, thiếu ánh sáng. Nhiệt độ môi trường tăng cao đột ngột, khônh khí khô, ánh nắng chói chang, hoặc do nhốt chung con lớn bé, hoặc do đưa các con mới về chuồng. Bệnh thường xảy ra ở các đàn ngỗng đang ở lứa tuổi mọc lông vài và lông cánh. ngoài ra có thể trong khẩu phần thiếu protein nghiêm trọng, hoặc trong thời gian ngắn cho ăn quá nhiều đạm động vật, sau đó lại thiếu, hoặc trong thức ăn thiếu khoáng lưu huỳnh, phốt pho, coban, mangan. Có thể do các yếu tố sinh lý như sự ồn ào. Điều hết sức quan tâm đối với ngỗng con là thiếu rau cỏ. Ngỗng con hầu như suốt ngày rất cần rỉa rau, nếu không có, buồn miệng hay nhấm rỉa lông nhau. Rỉa đến khi chảy máu và màu đỏ của máu lại tăng kích thích mổ cắn lông. – Phòng bệnh Cần kết hợp các yếu tố tổng hợp, nhất là nuôi dưỡng và chuồng trại. Điều dễ dàng, đơn giản, đơn giản nhất là nhanh chóng tậpncho ngỗng ra sân và chăn thả ngay từ ngày tuổi thứ 7 trở đi. Phát hiện sớm các ngỗng con bị rỉa để cách ly chúng ra khỏi đàn. – Trị bệnh Cho ăn sunfat canxi thạch cao vì trong chất này chứa 23% canxi và 18% lưu huỳnh. Cho uống nước pha 1% muối liên tục trong vài ngày có thể dập tắt được bệnh. Cho ăn bột lông và tăng cường rau xanh. Bổ sung dầu cá hoặc vitamin A từ 5 – 10 ngày với liều – UI và cách nhau 15 – 20 ngày lặp lại 3 lần. Câu Hỏi Thường Gặp Thức ăn của ngỗng trong chăn nuôi là gì? Các loại thức ăn được sử dụng trong chăn nuôi ngỗng gồm 1 Thức ăn xanh Rau, bèo, cỏ, củ, quả. 2 Thắc ăn hạt Ngô, thóc, đậu tương, lạc củ; 3 Thức ăn bổ sung khoáng. Kỹ thuật nuôi ngỗng con, ngỗng choai như thế nào? 1 Chọn ngỗng con khối lượng từ 85 - 100g/ nhẹn, lông bông, mắt sáng không hở rốn, dáng đi vững vàng; 2 Nhiệt độ; 3 Quây và máng ăn, máng uống; 4 Chất độ chuồng Dùng các loại rơm, trấu, mùn cưa để lót chuồng ngỗng; 5 Ánh sáng Cần đảm bảo 24/24 giờ ở những ngày đầu, sau đó là 18 - 20 giờ ở các tuần tiềp theo; 6 Mật độ 1 - 7 ngày tuổi 10 - 15 con/m2, 8 - 28 ngày tuổi 6 - 8 con/m2; 7 Thức ăn và cách nuôi dưỡng ngỗng. Originally posted 2014-04-17 024337.
Cây Long Não Cây Dã Hương là giống cây được trồng nhiều nhất tại Việt Nam. Ngoài những tác dụng làm cảnh thì cây còn có giá trị về mặt y học giống cây chữa nhiều bệnh như dạ dày, viêm ruột, trị cả côn trùng đốt, hiệu quả. Cây Xanh Đại Việt với hàng nghàn ưu đãi lớn nhất khi mua bán cây xanh, cây xanh tươi tốt và sử dụng dịch vụ cao cấp. Giới Thiệu Chúng Về Giống Cây Long Não Cây Dã Hương . – Tên hay gọi Long Não. – Tên khác Dã hương… – Tên khoa học Cinnamomum camphora. – Họ thực vật Lauraceae Long não. – Nguồn gốc Cây Long Não chúng với nguồn gốc ở khu vực Đông Á, ở các QG như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc. Nó được trồng tại khu vực ven bờ biển Đen của khu vực Kavkaz. – Phân bố rộng tại Đất Nước Việt. >>> Xem Thêm Cây Hoa Anh Đào. Những Đặc Điểm Của Cây Long Não Đảm Bảo Nhất. 1. Đặc Điểm Hình Thái Cây. – Cây Long não trưởng thành với chiều cao trung bình từ từ 3 – 4 m. Thân tròn và lớn, vỏ thân dày nứt nẻ. – Lá của cây nhẵn, bóng, bề mặt như sáp và có mùi thơm đặc trưng khi bị vò nát. Khi đến mùa Xuân Long não ra lá màu lục nhạt với nhiều hoa. Lá mọc so le cuống dài, ở kẽ gân chính và 2 bên nổi lên 2 tuyến gân. – Hoa cây Dã Hương nhỏ, màu vàng lục hoặc vàng trắng mọc thành chùm ở kẽ lá. Mùa hoa từ T3 – 4 hàng năm. – Quả của cây màu đen, mọc thành cụm với đường kính khoảng 1 cm. Quả chín vào T10 – 11. 2. Đặc Điểm Sinh Thái, Sinh Lý Của Giống Cây Long Não. – Mua Bán Cây Long Não là giống cây ưa sáng và ưa khí hậu ẩm. Cây mọc tốt trên đất sét pha tầng dày, không sống được trên đất mặn, khô hạn… – Với điều kiện lý tưởng, cây Long Não có thể tái sinh từ hạt hoặc chồi. – Long não chịu lạnh giỏi nhưng chịu sương muối và chịu gió kém… – Cây Long não ra hoa từ Tháng 4 – 6, quả chín từ Tháng 8 – 11. Các Tác Dụng Của Long Não Như Thế Nào? – Cây Long não có tán lá rộng và xanh tốt. Lá có khả năng làm sạch môi trường, hoa lại đẹp và thơm nên được trồng nhiều để làm cây cảnh, cây bóng mát cho khuôn viên nhà ở và công viên, bệnh viện, trường học, dọc đường phố, khu đô thị, tiểu cảnh nhà phố… – Gỗ của cây Long Não có màu hồng, là loại gỗ chịu nước, không bị mối mọt phá hoại lại có mùi thơm nên được sử dụng nhiều trong việc chế tạo các vật gia dụng, vật trang trí thủ công mỹ nghệ,… – Những bộ phận của cây Dã Hương được chưng cất tinh dầu dùng trong y dược. Lưu ý tinh dầu long não dùng trong y tế khác với tinh dầu long não tự nhiên – Vỏ cây ngâm rượu dùng sau được dùng làm nước xúc miệng để phòng, trị bệnh viêm răng, lợi… – Rễ chữa cảm cúm, đau đầu, đau dạ dày, đầy bụng, và thấp khớp. – Quả chữa bệnh đau dạ dày, khó tiêu hoá, trướng bụng,.. – Vỏ, cành và lá dùng để chữa trị mụn nhọt, nấm tóc, ngứa, rết cắn. – Lá và hạt dùng là loại hương liệu đốt để sua đuổi muỗi. >>> Tham Khảo Giống Cây Bồ Đề. Các Phương Pháp Trồng Và Chăm Sóc Long Não Tốt Nhất. 1️⃣. Thời vụ trồng cây giống. – Đầu mùa mưa là thời điểm thích hợp để trồng cây, thời tiết khi đó sẽ giúp cây sinh trưởng và phát triển nhanh. – Chọn lớp đất mặt dày, nhiều mùn, ẩm để trồng. – Cây Long não có thể phát triển bình thường trên các vùng đồi có đất nghèo dinh dưỡng, cằn cỗi… 2️⃣. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Long não. – Trồng Long não theo cách gieo hạt hoặc giâm cành. – Cần dùng cuốc bới giữa hố có độ sâu bằng chiều cao của bầu trước khi trồng. – Sau đó bóc bầu, đặt cây sao cho cổ rễ ngang mặt hố, rồi vun đất xung quanh cho kín, ấn chặt. – Tưới nước vừa phải để cây hấp thu chất dinh dưỡng. – Dã Hương là cây lâu năm nên trong vòng 3 năm đầu nên chăm sóc tốt để cây có đủ nguồn dinh dưỡng. – Thường xuyên xới đất xung quanh gốc và kết hợp bón thúc – phân NPK/cây. – Ngoài ra cũng cần phải kết hợp chăm sóc với tỉa cành để tạo dáng. >>> Xem Thêm Mua Bán Cây Bàng Đài Loan. Vườn Ươm Cây Xanh Đại Việt Địa Chỉ Cung Cấp Mua Bán Cây Long Não Chất Lượng Cao. CTY Cây Xanh Đại Việt chuyên phân phối các gói dịch vụ mua bán cây ăn quả, cây xanh công trình, cây xanh ngoại thất, cây quý hiếm giá rẻ Cây Long Não Cây Dã Hương với nhiều kích thước, cây giống chất lượng. Đặc biệt với gói ưu đãi lớn đối với các bạn khi mua giống Cây Dã Hương, sân vườn nhà mình, công đức sử dụng với mục đích kinh doanh – với hàng nghàn các ưu đãi và các phần quà chính sách tốt giảm giá sản phẩm 10%. quý khách với các dịch vụ về cây xanh, dịch vụ trồng cây xanh, dịch vụ di dời cây xanh, dịch vụ thiết kế sân vườn, dịch vụ chăm sóc cây xanh, phân phối cây xanh trên toàn Miền Bắc đảm bảo, được tham quan và chiêm ngưỡng những giống cây giá rẻ đảm bảo. Đội ngũ nhân viên với nhiều kinh nghiệm về cây xanh, cây cảnh sẽ giải đáp mọi thắc mắc liên quan đến cây xanh, cây cảnh… Hotline – Tư Vấn – Báo Giá 0968 629 268.
Nếu bạn đã xác định được những ngọn cỏ bị cắt xén với nhiều lưỡi giống như ngón tay trong bãi cỏ của bạn, bạn sẽ cần điều tra làm thế nào để tiêu diệt ngỗng. Nhà máy có thể được thiết lập ngay cả trong đất cứng, nén và rất đàn hồi. Phiến lá dày rất khó cắt bằng máy cắt và thậm chí sau khi tỉa sát, cỏ sẽ trông rách rưới và không được chăm sóc nếu có lông ngỗng. Cây rõ ràng nhất là vào mùa hè ấm áp, nhưng có thể tồn tại vào mùa đông ở vùng ôn đới. Các lưỡi dày, thô ráp tỏa ra từ một khu vực trung tâm trong các mũi nhọn từ 2 đến 13. Mỗi lưỡi dao phẳng với răng cưa nhẹ ở các cạnh. Màu xanh ngọc lục bảo với các lưỡi cũ hơn mang một màu trắng trên các cạnh bị hư hỏng. Kiểm soát ngỗng trong bãi cỏ Kiểm soát ngỗng là điều cần thiết cho một bãi cỏ hấp dẫn. Cây khó khăn đòi hỏi sự cảnh giác để giữ cho đầu hạt giống hình thành. Giữ lưỡi cắt của máy cắt của bạn thật sắc nét để chúng có thể loại bỏ các hoa hồng ngoại trước khi chúng gieo hạt. Nước ngập và văn hóa cực đoan có thể thúc đẩy sự phát triển của cỏ dại. Những bãi cỏ loang lổ và những khu vực có lưu lượng chân lớn sẽ có số lượng ngỗng cao nhất. Việc kiểm soát ngỗng trong bãi cỏ phụ thuộc vào việc bảo trì đúng cách trước và trước khi xuất hiện hoặc sau khi xuất hiện hóa chất để bùng phát. Một cách đơn giản để giúp ngăn chặn cỏ dại là sục khí. Sục khí làm tăng độ xốp của mặt đất và ngăn cản sự hình thành của ngỗng. Kiểm soát cỏ dại Có một số loại thuốc diệt cỏ xuất hiện trước để kiểm soát cỏ ngỗng. Chúng hoặc được sử dụng đơn lẻ hoặc với các hóa chất khác. Công thức chính xác sẽ phụ thuộc vào loại sod trong bãi cỏ của bạn. Thuốc diệt cỏ sau khi xuất hiện rất hữu ích như các ứng dụng tại chỗ và có thể được sử dụng nhiều lần trong mùa để kiểm soát cỏ dại trước khi chúng gieo hạt. Hãy chắc chắn tham khảo nhãn của sản phẩm bạn chọn để kiểm soát cỏ dại. Làm thế nào để giết ngỗng Thực hiện theo tất cả các biện pháp phòng ngừa được khuyến nghị trên sản phẩm bạn sử dụng để kiểm soát cỏ dại. Hầu hết các loại thuốc diệt cỏ cần được áp dụng khi có thời gian khô để ngăn sản phẩm rửa sạch khỏi lưỡi cỏ. Nếu bạn đang sử dụng một ứng dụng phun để kiểm soát cỏ ngỗng trong các bãi cỏ, hãy áp dụng nó vào một ngày không có gió để tránh trôi dạt có thể giết chết các cây không phải mục tiêu. Thuốc diệt cỏ trước khi xuất hiện hoạt động tốt nhất nếu được áp dụng vào cuối mùa đông đến đầu mùa xuân khi nhiệt độ đất đạt 60 độ F 15 C. trong 24 ngày liên tiếp. Ghi chú Kiểm soát hóa học chỉ nên được sử dụng như là phương sách cuối cùng, vì các phương pháp hữu cơ thân thiện với môi trường hơn.
I. NUÔI NGỖNG CHĂN THẢ ĐỒNG. 1. Nuôi ngỗng sinh sản. – Ngỗng sinh sản có thể chăn đàn từ 50 – 300 con. – Buổi sáng khi thả ngỗng ra khỏi chuồng nên lùa xuống ao sạch để chúng giao phối và tắm. Sau đó đưa ngỗng ra đồng chăn. Ngỗng thường nhớ đường đi về, chỉ cần tập vài lần là quen, chúng có thể đi ăn rất xa rồi tự tìm đường về chuồng được. Nhưng không nên cho ngỗng đi ăn quá xa sẽ bị mệt, nhất là vào mùa đẻ. – Ngỗng có thể chăn thả ở những cánh đồng đã gặt, bãi cỏ ven đê, bờ cỏ ven mương máng nhưng đó là những bãi chăn quanh năm của ngỗng. Ngỗng thích vặt cỏ non, cỏ già hay quá cao chúng chỉ ăn khi không còn cỏ khác. Có thể lùa ngỗng đi chăn theo các mương máng thường có nhiều cỏ non và hạt cỏ. – Ngỗng ít mò kiếm mồi như vịt nên ao hồ chỉ là nơi phối giống, bơi lội là chủ yếu. Người ta không thả ngỗng ra ven biển vì chúng không thích ăn những loại thức ăn mà vịt rất thích. – Ngỗng ở nước ta chịu khó kiếm ăn, nói chung trong toàn bộ thời gian chăn thả, chúng chỉ nghỉ lúc đã ăn no, khi trời quá nóng hoặc khi bị bùn bẩn phải xuống ao hồ tắm. Kỹ thuật chăn nuôi ngỗng Thời gian nuôi ngỗng bố mẹ được chia làm ba thời kỳ *Thời kỳ sinh sản – Ở thời kỳ này ngỗng co, ngỗng sư tử thường đẻ làm ba đợt, đợt đầu thường kéo dài hơn. Như vậy, không phải toàn bộ ngỗng cái đều cùng đẻ đồng loạt như nhau, mà có con đẻ trước có con đẻ sau. ngỗng rất nhớ ổ đẻ nên dù đang ăn ở đâu khi mót đẻ chúng cũng tự ý tách đàn đi về ổ đẻ của mình. Đang ở ngoài đồng, khi ngỗng cái bỏ về nhà, một ngỗng đực quen thuộc thường cũng theo về đứng gần ổ đẻ. Khi đẻ xong ngỗng tự đi ra đồng cùng kiếm ăn với đàn. Nhìn chung trứng ngỗng tỉ lệ có phôi không cao và nếu không có cách quản lý nuôi dưỡng thì có khi tỉ lệ phôi rất thấp. Muốn nâng cao tỉ lệ trứng ngỗng có phôi cần phải làm như sau – Cho ngỗng đực ăn thêm thức ăn bổ sung. Vào trước vụ để tách riêng ngỗng đực cho ăn thêm khoảng 15 ngày. Ngỗng đực được ăn tốt sẽ cho phẩm chất tinh dịch tốt. Thức ăn bổ sung là lúa ủ mầm mới nhú, cũng có thể cho ăn thêm thức ăn hỗn hợp bao gồm bột cá, cám trộn với rau xanh… – Khi thành lập đàn cần lưu ý đến tỉ lệ ngỗng ở các lứa tuổi khác nhau. Đàn ngỗng bố mẹ có thể sử dụng đến 5 năm, trong đàn nên có 10% ngỗng 1 năm tuổi, 20% 2 năm tuổi, 35% 3 năm tuổi, 25% 4 năm tuổi và 10% 5 năm tuổi. Thành lập đàn như vậy ngỗng đực có thể lựa chọn ngỗng cái phù hợp với nó và nâng cao tỉ lệ trứng có phôi. -Thường ngỗng hay giao phối vào buổi sáng sớm sau khi thả ra khỏi chuồng, vì vậy khi thả ngỗng cần lùa chúng xuống ao hồ nước sạch và sâu để chúng giao phối được thuận lợi – Buổi chiều lùa ngỗng về nếu thấy ngỗng còn đói thì nên cho ăn thêm thóc, bắp. Ngỗng đẻ được ăn no sẽ đẻ đều và có khả năng chịu đực tốt hơn. *Thời kỳ ấp trứng -Trước hết cần chuẩn bị tốt ổ đẻ cho ngỗng. Ổ đẻ có thể làm chung quanh tường trong chuồng, khoét nền chuồng thành hình lòng chảo có đường kính 40 cm, sâu 20 cm, lấy rơm vò mềm rồi lót lên ổ một lớp dầy 15cm, có thể đổ thêm trấu vào ổ. Giữa các ổ nên có vách ngăn để tránh tình trạng ngỗng tranh nhau ổ đẻ và đánh cắp trứng ấp của nhau. Khi ngỗng ấp cần san trứng trong mỗi ổ cho đều, không để con có nhiều trứng quá, con ít trứng quá. Ngỗng cái ham ấp, chỉ thỉnh thoảng chúng mới đi ra ngoài để phóng uế và ăn uống, vì thế nên để thức ăn và nước uống sẵn trong chuồng *Thời kỳ ngưng đẻ – Thời kỳ này kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 8. Trong thời gian này không phải cho ngỗng ăn thêm gì, vì ngỗng không có thói quen chăm con, ngỗng con thường được nuôi riêng. Cũng vào thời gian này ngoài bãi chăn sẵn cỏ non và đặc biệt lại vào vụ gặt Đông – Xuân ngỗng được lùa ra đồng cho ăn lúa rụng. Nếu được chăn thả tốt, ngỗng bố mẹ được đủ thì chúng sẽ thay lông nhanh chóng, hồi phục được sức khỏe và tích lũy được các chất dinh dưỡng để phát triển trứng non và chuẩn bị cho vụ đẻ sau. – Nhìn chung ngỗng lớn có khả năng thích nghi với sự thay đổi thời tiết cao. Nhiệt độ thích hợp đối với ngỗng sinh sản thường là từ 14 – 150c. nếu trời mưa lạnh thì cần che chuồng cho ngỗng và tránh gió lùa. Về mùa hè ngỗng thường không chịu được nóng, vì thế chăn thả nên tìm nơi có bóng cây và có ao hồ nước sâu và mát để chúng bơi lội. 2. Nuôi ngỗng con gột ngỗng – Ngỗng con ở vào từ lứa tuổi sơ sinh đến 4 tháng tuổi khác với ngỗng bố mẹ, ngỗng con rất sợ lạnh vì khả năng điều tiết thân nhiệt kém. Ngỗng con được ăn no đủ sẽ lớn rất nhanh, thể trọng có thể gấp 15 – 20 lần lúc mới nở. Nuôi ngỗng con chăn thả hiện nay là một khâu khó khăn nhất, nhưng lại có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ kỹ thuật chăn nuôi ngỗng. – Trong nông dân ta có rất ít người có kinh nghiệm gột ngỗng con. Những người này thường ít phổ biến kinh nghiệm cho những người khác. Có thể đây là một trong những nguyên nhân chính khiến nghề nuôi ngỗng của ta qua bao thế kỷ vẫn chưa phát triển được. Thật ra việc gột ngỗng con không phải là một việc làm quá phức tạp. Những ngày đầu ngỗng con cần có nhiệt độ bên ngoài là 320c. có thể quây ngỗng con bằng mê bồ cao từ 0,5 – 0,8m. tùy theo số con mà quây mê bồ rộng hay hẹp nhưng không nên để thành đàn đông trên 200 con. Trong 3 ngày đầu chưa nên đưa ngỗng đi chăn vì lúc này chân nó còn yếu, đi chưa vững. Thời gian này không nên cho ngỗng ăn thức ăn đạm động vật để cho khối lòng đỏ còn lại trong bụng tiêu hết, nếu không nó sẽ biến thành một thứ tuyến làm ảnh hưởng đến sức lớn của ngỗng sau này. Thức ăn ngỗng thích nhất là rau xà lách. Nếu là xà lách thì thái nhỏ bằng sợi bún, trộn với ít cám hoặc cột thành bó cả cây treo lên vừa tầm để ngỗng tự vặt lấy. Nên để thức ăn thành nhiều chỗ để ngỗng đỡ tranh nhau ăn, nếu không có con ăn ít sau này đàn ngỗng lớn không đều. – Ngỗng con ăn rất khỏe và ăn luôn miệng. Buổi tối nên có đèn đủ sáng và đủ ấm thì ngỗng con có thể vẫn ăn uống. Sau 3 ngày tuổi phải tiếp tục cho ngỗng ăn vì chưa đưa chúng đi chăn thả được. Lúc này thức ăn phải có đủ thành phần và được gọi là thức ăn khởi điểm. Đây là một thứ thức ăn hỗn hợp gồm các thứ hạt nghiền gạo, bắp nghiền, đậu mảnh. Kích thước hạt thức ăn không được quá 4mm. Cho thêm khô dầu đậu tương, khô dầu đậu phộng và bột cá. Tỷ lệ các loại thức ăn trong khẩu phần % của ngỗng con trong 2 tuần lễ đầu có thể phối hợp như sau Hỗn hợp thức ăn hạt 70% Thức ăn đạm nguồn gốc động vật 5% Thức ăn đạm nguồn gốc thực vật 8% Cám 15% Các loại thức ăn bổ sung khác 2% – Đây là loại thức ăn dành cho ngỗng con của một số trại nuôi ngỗng tập trung với phương thức chăn nuôi thả là chủ yếu. Còn ở các trại giống nuôi ngỗng ngoại theo hình thức nuôi thâm canh trong đó chăn thả chỉ là phụ thì phải có thức ăn khác, đầy đủ thành phần hơn. – Có thể đánh giá kết quả chăn nuôi ngỗng bằng cách theo trọng lượng của ngỗng con ở các lứa tuổi khác nhau. Nói chung nếu sự tăng trọng đạt được như sau thì coi như ngỗng con đã phát triển bình thường đối với ngỗng cỏ1 ngày tuổi 110g,7 ngày tuổi 220g,14 ngày tuổi 400g, 21 ngày tuổi 570g, 28 ngày tuổi 820g – Thông thường muốn đạt được trọng lượng này thì trong chăn nuôi chăn thả phải cho ngỗng ăn khoảng 2,5 kg thức ăn tinh – Sau 5 ngày tuổi thì có thể đưa ngỗng đi chăn. Lúc này chân ngỗng vẫn còn yếu nếu bãi chăn thả khá xa thì phải chở chúng đi có thể gánh bằng xịa có nắp hở. Chú ý đừng có chở chật quá vì ngỗng con có thể đè lên nhau mà chết. Bãi chăn ngỗng con ở lứa tuổi này phải có nhiều cỏ non nhưng phải bằng phẳng và không quá rậm rạp. Ngỗng thích ăn cỏ gấu và cỏ gà non nhất. Phải tới 15 ngày tuổi mới có thể thả ngỗng đi ăn tự do được. Đến tuổi này ngỗng con rất hoạt động, chúng luôn sục sạo tìm mồi nhất là tìm cỏ, lá và củ. Do đó phải chú ý không để chúng phá vườn tược hoa màu. Số lượng thức ăn hàng ngày của ngỗng có thể lên đến 150g trong đó cỏ chiếm 100g, lúc ngỗng ăn no trông thực quản còn to hơn cổ của nó. cho ngỗng vặt cỏ tốt hơn là cho ăn rau trồng rau muống, rau lang….vì cỏ chứa ít nước hơn giá trị dinh dưỡng tổng số của cỏ lớn hơn tuy vật chất khô có thể kém so với một số loại rau trồng.ngoài ra ngỗng ăn cỏ thì phân đỡ ướt, do đó đỡ công dọn vệ sinh. – Nước uống cho ngỗng trong những ngày đầu rất quan trọng; mỗi ngỗng con từ 1 ngày tuổi đến 5 ngày tuổi cần trung bình 50 ml trong một ngày đêm. Chú ý đặt máng uống hơi cao để ngỗng không dẫm đạp vào và nhất là tránh chúng rỉa lông bằng nước uống. Lông ngỗng con là lông tơ, tuyến nhờn chưa phát triển nên rất dể ướt. Lông hi đã ướt ngỗng lại ăn thức ăn bột thì lông dễ dính bết, mắt có thể bị đau và có khi lông tróc ra thành từng mảng. – Khi chăn thả ngỗng con dưới 15 ngày tuổi nên mang theo máng đựng nước sạch cho ngỗng uống, vì nếu để ngỗng đi tìm nước uống thì chúng có thể sa xuống hồ, ao không lên được. – Những ngày trời mưa lạnh và gió to không cho ngỗng dưới 15 ngày tuổi ra đồng. Nếu nuôi ngông theo lối bán thâm canh thì sự phụ thuộc của ngỗng con vào thời tiết sẽ giảm đi nhiều. Những khi nắng hoặc mưa gió nên để ngỗng ở lại chuồng và lúc này rau xanh sẽ thay thế cho cỏ vì ngỗng không thể ra bãi chăn thả được. – Từ 15 ngày tuổi trở lên lúc này ngỗng con đã cứng cáp, có thể cho tự do tìm thức ăn và nước uống ở những bãi chăn xa hơn. Ơ tuổi này ngỗng con có thể tự tìm ra bãi chăn nhưng việc chăm sóc chúng trên đường đi hay ở bãi chăn thả là rất cần thiết; chú ý đừng để chúng đi quá phân tán, lạc đàn, sa xuống chỗ sâu không lên được hoặc phá hoại các loại cây trồng. – Ngỗng con ăn lắm ỉa nhiều. Phân ngỗng rất ướt và hăng, vì thế tro ng chuồng hay chỗ ở quây ngỗng phải luôn quét dọn sạch sẽ. Ngoài ra cần chú ý đề phòng chuột mèo hay cắn ngỗng con. Chỗ nuôi ngỗng phải được bảo vệ cận thận, nếu là quây mê bồ thì ở trên phải có nắp lưới hay nắp phên có khe hở để thông hơiđậy khít. Bên trong quây có treo đèn để có ánh sáng cho ngỗng ăn đêm và chuột sợ không dám vào. 3. Nuôi ngỗng thịt và ngỗng hậu bị – Từ 1 tháng tuổi trở lên là ngỗng choai nuôi lấy thịt hay nuôi hậu bị để thành lập đàn mới hoặc bổ sung đàn ngỗng sinh sản. – Nuôi ngỗng thịt nói chung đơn giản hơn vì lúc này ngỗng đã trưởng thành, chúng phàm ăn và chóng lớn, do đó rất thích hợp cho cách nuôi chăn thả. – Ngỗng thịt có thể nuôi theo đàn đông khoảng 300 – 500 con, lứa tuổi trong đàn không nên chênh lệch nhau quá nhiều để cho ngỗng lớn đều và dễ tổ chức chăn thả. – Nếu nuôi đúng vào vụ gặt lúa thì buổi sáng lùa ngỗng ra ngoài đồng để nhặt các hạt rơi vãi. Trông một đàn lớn cũng không vất vả lắm vì chúng không chạy nhanh và sục sạo khắp nơi như vịt, vì vậy có thể sử dụng lao động phụ như cụ già trẻ em. Vào vụ gặt thường không phải cho ngỗng ăn thêm gì, vì ngỗng ăn nhiều và phàm ăn, nhiều khi chúng ăn thức ăn đầy lên tận hầu. Thế mà một giờ sau thức ăn đã vơi và chúng có thể kiếm thức ăn ngay. Khi thấy ngỗng ăn đã no nên lùa chúng vào nghỉ chỗ râm mát, có nước để uống và bơi lội. Ngỗng choai rất thích bơi lội và đùa giỡn dưới nước. đàn ngỗng được tắm đầy đủ thường thay lông bóng mượt. – Nếu nuôi ngỗng choai không đúng vào vụ gặt thì sau khi chăn ở đồng bãi về cần cho ngỗng ăn thêm. Thức ăn cho thêm thường là lúa xấu, khoai lang băm nhỏ, sắn, bắp…..nếu ở gia đình nuôi với số lượng ít khoảng 10 – 15 conthì có thể tận dụng nước vo gạo trộn thêm thức ăn vào để chúng mò, nước vo gạo chứa nhiều chất dinh dưỡng như vitamin B1 rất cần cho ngỗng choai. Nhiều gia đình còn cho ngỗng ăn thêm bã rượu, bã đậu, cám heo…..cũng rất tốt. – Tùy theo điều kiện chăn nuôi có thể kết thúc nuôi ngỗng thịt vào lúc 75 hay 90 ngày tuổi lúc này ngỗng được 3,5 – 4,2kg. Nếu ngỗng được nuôi dưỡng tốt chóng lớn thì có thể rút ngắn thời gian nuôi, vì ở 10 tuần tuổi có con đạt được 3,5kg nếu là ngỗng sư tử hay ngỗng cỏ và nặng 4kg nếu là ngỗng Rênan. – Ngỗng hậu bị có thể chọn ra từ đàn ngỗng thịt, chú ý tránh đồng huyết, chọn ngỗng thịt đưa lên hậu bị chủ yếu căn cứ vào ngoại hình. Ở 3 tháng tuổi ngoại hình ngỗng chưa thật hoàn chỉnh, vì vậy cần kết hợp với cân đo và tiêu chuẩn giống để chọn cho sát. Nên dự phòng một số ngỗng đực ngoài yêu cầu cần thiết. Ví dụ nếu 100 ngỗng cái yêu cầu cần thiết là 25 ngỗng đực, thì ta nên chọn 30 con làm hậu bị. Đến khi vào vụ đẻ ta sẽ loại bớt ngông đực xấu đi và cả những con cái không đạt yêu cầu – Sự phân biệt đực cái ở các giai đoạn ngỗng thịt chuyển lên hậu bị vẫn còn khó. Thường ngỗng đực nặng cân hơn, đầu to, cổ dài dáng đi nhanh nhẹn và thường đi trước đàn. Nhưng để chính xác phải mở lỗ huyệt của ngỗng để chọn ngỗng đực có gai giao phối màu hồng nhạt, dài độ 1,5cm, ngỗng cái có lỗ huyệt nhẵn và hơi mềm hơn. – Người ta thường nuôi ngỗng hậu bị theo lối “cầm xác”, chủ yếu cho ăn ngoài đồng bãi. Ở giai đoạn này ngỗng hậu bị được chăn ngoài đồng sẽ chịu đựng kham khổ, đỡ tốn thức ăn, chịu khó tìm thức ăn, đồng thời cách nuôi chăn thả có thể nâng cao sức khỏe của ngỗng. Ở lứa tuổi này ngỗng tăng trọng hầu như không đáng kể, chúng chỉ béo lên trước vụ đẻ khi được nuôi vỗ béo. Việc tăng trọng chậm ở giai đoạn hậu bị không phải là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá con giống, trái lại người nuôi ngỗng có nhiều kinh nghiệm cố gắng tránh ngỗng béo lên trong thời kỳ này – Lúc chuyển ngỗng hậu bị sang đàn sinh sản cần chọn lọc lại để loại bỏ những con không đủ tiêu chuẩn II. NUÔI VỖ BÉO VÀ NHỒI BÉO NGỖNG – Nuôi vỗ béo ngỗng là phương pháp cho ngỗng ăn các loại thức ăn giàu chất bột đường để chúng tích lũy mỡ và thịt nhanh chóng – Nhồi béo là phương pháp vỗ béo tích cực nhất bằng cách ép chúng ăn thật nhiều loại thức ăn trên để tăng mỡ thịt hoặc để lấy gan béo – Ngỗng thịt nuôi theo lối chăn thả có thể dùng để vỗ hay nhồi béo rất thích hợp – Quá trình vỗ béo hay ngỗng lấy mỡ, thịt hay nhồi béo lấy gan đều phải tuân theo các điều qui định chính sau đây + Giống để vỗ và nhồi béo cần phải chọn lọc cận thận thì mới đạt hiệu quả cao, không dùng dùng ngỗng cỏ và ngỗng Sư tử để nhồi béo lấy gan và mỡ vì khả năng tích lũy mỡ của các giống này kém, ngỗng để nhồi tốt nhất là ngỗng Lăng, hoặc con lai của ngỗng Lăng x Rênan + Tuổi vỗ và nhồi béo thích hợp ngỗng vỗ béo là 56 ngày và nhồi sau 10 tuần tuổi, nhưng độ tuổi nếu quá muộn thường chỉ đạt hiệu quả kinh tế thấp, còn quá sớm thì gây chết nhiều đồng thời khả năng tăng trọng cũng không cao do chúng chưa phát triển bộ khung đầy đủ và khả năng hấp thu cũng kém + Kỹ thuật nhồi nói chung cần được luyện tập để đảm bảo làm nhanh nhẹ nhàng + Chuồng nuôi cần bảo đảm yên tĩnh, hơi tối có độ ẩm vừa phải cho ngỗng vỗ béo 75 – 80% nhưng cần thoáng mát và vệ sinh + Thức ăn dùng để nhồi hay vỗ béo cần được lựa chọn cho thích hợp với giống và được xử lý đúng cách . nói chung thức ăn phải mềm, dễ tiêu sạch và có chất lượng tốt + Cho ngỗng uống nước đầy đủ, nước trong sạch, nên cho uống tự do trong thời kỳ vỗ và nhồi thời gian nhồi ngỗng kéo dài bao nhiêu là tùy theo loại ngỗng và phụ thuộc vào mục đích lấy thịt, mỡ hay gan đồng thời còn phụ thuộc vào yêu cầu chất lượng sản phẩm béo vừa hay béo đẫy, gan to vừa và chắc hay gan thật béo – Vỗ béo hay nhồi béo ngỗng, ngỗng có thể vỗ béo để bán thịt hoặc nhồi để lấy gan. +Vỗ béo bán thịt bằng cách cho ăn tự do trước khi vỗ béo cần cho ăn no đủ, sau đó trong 10 ngày vỗ đầu tiên cho ngỗng ăn thường xuyên thật no, tiếp theo khi ngỗng đã béo vừa phải thì cho ăn các loại thức ăn ngon miệng để kích thích chúng ăn được nhiều, thức ăn trong giai đoạn sau cần có giá trị dinh dưỡng cao, thức ăn chủ yếu dùng để vỗ là bắp hạt vàng ngâm qua đêm, có thể cho thêm một chút muối, ngoài ra có thể cho chúng ăn thêm cám, khoai trộn với rau xanh khoảng 20%. Ở giai đoạn giữa về cuối có thể cho ngỗng ăn thêm bột cá, bột đậu tương khoảng 8% nếu có và cho thêm bí đỏ nạo để chúng ăn dễ. Thời gian vỗ béo của ngỗng khoảng 15 ngày là vừa, nếu dài hơn thì ngỗng ăn tốn mà tăng trọng chậm, vả lại khi ngỗng đã béo đẫy thì chúng chán ăn + Nhồi béo lấy gan ở nước ta việc nhồi béo lấy gan chưa có tập quán, đến nay kỹ thuật này cũng mới chỉ áp dụng trong phạm vi thí nghiệm ở viện chăn nuôi…những kết quả bước đầu cho thấy chỉ nên dùng ngỗng Lăng và con lai của nó với ngỗng Rênan. Việc nhồi ngỗng lấy gan thường tốn quá nhiều bắp hạt nên hiện nay không có lợi trong thực tiễn, chỉ khi nào gan ngỗng béo có thể xuất khẩu với giá trị cao thì mới phổ biến kỹ thuật này. Originally posted 2014-04-17 024420.
cây cỏ lông ngỗng